Xuất bản thông tin

null Vai trò của các thiết chế Đình – Chùa – Nhà Văn hóa trong đời sống nhân dân

Chi tiết bài viết Tin tức

Vai trò của các thiết chế Đình – Chùa – Nhà Văn hóa trong đời sống nhân dân

Từ xa xưa, ngôi đình, ngôi chùa đã trở thành một phần của cấu trúc làng xã, đã đi vào ca dao, dân ca, thành biểu tượng “cây đa, bến nước, sân đình” và đã thành thước đo của tình yêu đôi lứa: “Qua đình ngã nón chào đình, đình bao nhiêu ngói, thương mình bấy nhiêu”. Về lịch sử hình thành thì kiến trúc chùa có trước kiến trúc đình làng đến hàng trăm năm. Ở thế kỉ XI cùng với sự du nhập Phật giáo, chùa chiền ở nước ta bắt đầu được quan tâm xây dựng, nổi tiếng với những ngôi chùa như chùa Một cột, chùa Tây phương (Hà Nội). Chùa làng, là nơi thấm đẫm triết lý cao siêu của đức Phật từ bi, là nơi con người chiêm bái, tâm niệm về lẽ sống hướng thiện, sống để phúc, để đức cho con cháu. Nơi thả hồn sau bao vất vả mưu sinh, để được đắm mình trong hư vô và cảnh sắc u tịch. Vì thế chùa thường được xây dựng ở rìa làng cho có vẻ lánh đời, thoát tục. Nhưng qua nghiên cứu lịch sử, trước khi có đình làng thì mọi sinh hoạt cộng đồng đều diễn ra ở chùa như họp chợ, họp cộng đồng làng và dạy học. Đình chùa còn là nơi cộng đồng thể  hiện đạo lý “Uống nước nhớ nguồn”. Những nhân vật lịch sử có công với dân, với nước, khi mất được triều đình truy  phong, được thờ làm thành hoàng làng. Các liệt sĩ đã xả thân vì non sông đất nước qua các cuộc kháng chiến, những người đã hưng công, tạo tác dựng đình, chùa, tên tuổi đều được ghi trong thần tích, được khắc bia để cộng đồng thắp hương tri ân vào các dịp lễ hội làng.

Đình Tân Long

Về ảnh hưởng của triết lý nhân sinh của đạo Phật và vai trò của ngôi chùa trong đời sống cộng đồng, nho thần Lê Quát, trong Đại Việt sử ký toàn thư đã phải thốt lên: “Nhà Phật chỉ lấy họa phúc để cảm động lòng người sao mà được người tin theo sâu bền như thế! Trên từ vương công, dưới đến dân thường, hễ bố thí vào việc nhà Phật, dù đến hết tiền của cũng không sẻn tiếc... Chổ nào có người ở tất có chùa Phật, bỏ đi rồi lại dựng lên, nát đi rồi lại sửa lại, lâu đài, chuông trống chiếm đến nửa phần so với dân cư”. Còn sử gia Lê Văn Hưu viết: “Trong nước, nhân dân quá nữa là sư sãi. Nơi nào cũng có chùa chiền”. Ảnh hưởng của Phật giáo tới mức vua Lý Thái Tôn, một vị vua triều Lý tự đặt tên húy cho mình là “Phật Mã” (tức là con ngựa của đức Phật). Vua Trần Nhân Tông sau khi nhường ngôi cho con, về quy y đầu Phật chốn non thiêng Yên Tử, sau thành tố thứ nhất của thiền phái Trúc Lâm.

Còn ngôi đình, xưa gọi là đình trạm, thời kỳ đầu, đình được xây dựng ở trên đê, là nơi dừng chân nghĩ ngơi của dân làng sau lao động vất vả, điểm phủ dụ dân chúng của các quan mỗi dịp kinh lý về làng. Sang thời Lê, khi Nho giáo chiếm địa vị độc tôn, đình được xây dựng ở vị trí trung tâm của làng. Nói một cách đơn giản, đình là ngôi nhà chung của cộng đồng làng xã, được toàn dân trong làng chung sức xây dựng và thể hiện ước vọng tinh thần chung của cả làng. Theo Phan Kế Bính và Đào Duy Anh, hai bậc túc Nho thì đình làng là nơi thể hiện cao nhất các khái niệm Nho giáo về tôn ti, trật tự, về phẩm trật, ngôi thứ, tính pháp lệ. Đình làng ngoài chức năng thờ Thành hoàng, còn là nơi Hội đồng kỳ mục, Hội đồng lý dịch họp bàn những việc liên quan đến binh lương, thuế khóa, khao vọng, xử kiện, chia đất đai, lễ thành đinh, ghi tên người trưởng thành vào sổ hương ẩm. Cuối cùng là nơi tổ chức lễ hội thường niên của làng (còn gọi là “Làng vào đám”’hay “trà nhập tịch”. Do những ý nghĩa nêu trên nên việc xây dựng đình , chùa được đánh giá là một trong những việc quan trọng nhất trong đời sống làng quê truyền thống. Những nhân vật lịch sử có công với dân, với nước, khi mất được vua ban mỹ tự, được nhân dân suy tôn làm Thành hoàng làng, được thờ tại đình làng. Những làng có nghề truyền thống, kinh tế phát triển hoặc có nhiều người học hành đỗ đạt, làm quan to trong triều đình, mới có điều kiện huy động các nguồn lực xây dựng các ngôi đình, chùa bề thế. Còn những làng nhỏ, làng thuần nông thì muốn xây đình, thường phải “kết chạ” (tức là kết nghĩa anh em với làng khác – làng cùng thờ một nhân vật lịch sử), giúp nhau về nhân tài, vật lực hoặc phải bán ngôi nhiêu cho những người có tiền của (tức những tước vị chỉ có danh, không có thực ) mới xây dựng được đình.

Qua đó cho thấy đời sống tâm linh tín ngưỡng của người dân không thể thiếu thiết chế đình chùa. Và cứ thế, trải qua trường kỳ lịch sử, mái đình, ngôi chùa đã thành chứng nhân lịch sử, gắn bó với sự tồn vong của làng thôn Việt. Song ngôi đình, cũng từ lâu chứng kiến tệ hà lạm, nhũng nhiễu của các tầng lớp có của trong việc phân chia quyền lực, bóp nặn dân nghèo. Đình làng, nơi Hội đồng kỳ hào xây dựng và bố cáo Hương ước của làng, mặc nhiên thừa nhận một lệ làng thành văn mà nhiều khi lệ làng còn cao hơn phép nước, biến làng thành nơi chậm thi hành pháp luật của nhà nước, thể hiện sinh động qua câu “Phép vua thua lệ làng”. Đình làng giữ vị trí như một pháo đài lưu giữ phong tục tập quán (cả tích cực và tiêu cực) đôi khi là nguyên nhân của sự trì trệ làm chậm sự phát triển của xã hội.

Theo nhịp phát triển của đất nước, đời sống thôn làng cũng nhiều đổi thay.Những ngôi đình, chùa qua biến động lịch sử giờ đã mai một – thành giá trị di sản. Ngôi làng ngày nay đã chủ động mở ra để giao lưu hội nhập, phát triển kinh tế, văn hóa – xã hội. Nhu cầu về một thiết chế vừa là nơi họp bàn việc làng, phổ biến chủ trương, đường lối chính sách của Đảng, pháp luật của Nhà nước; phổ biến các kiến thức khoa học kỹ thuật, giáo dục tư tưởng, đạo đức lối sống, vừa là nơi tổ chức các hoạt động văn hóa, văn nghệ, thể dục,thể thao, vui chơi, giải trí, nâng cao mức hưởng thụ văn hóa của nhân dân đã trở thành nhu cầu thiết yếu của người dân ở cơ sở. Giờ đây người dân đến Nhà văn hóa, Trung Tâm Văn hóa Học tập Cộng đồng để được tham gia bàn chuyện thâm canh, tăng năng suất cây trồng, vật nuôi; thảo luận chuyên đề về nuôi con khỏe, dạy con ngoan, bàn giải pháp thoát nghèo; phòng chống bạo lực gia đình, tham gia tìm hiểu luật pháp, pháp lệnh dân chủ cơ sở; góp ý việc xây dựng qui ước và tham gia các chương trình văn hóa văn nghệ , thể dục thể thao.

Ngày nay làng xã ở cơ sở đang chuyển mình trong cuộc cách mạng công nghiệp hóa, hiện đại hóa. Việc dành quỹ đất xây dựng Nhà Văn hóa là ưu tiên số một trong việc thực hiện 19 tiêu chí quốc gia về xây dựng nông thôn mới. Nhiều làng xã, khu dân cư, nhân dân đóng góp kinh phí, vừa để xây dựng, tôn tạo , tu bổ, hoặc xây mới đình, chùa. Việc ba thiết chế: Tín ngưỡng – tôn giáo – văn hóa cũng được quan tâm quy hoạch, được xây dựng trong cấu trúc thôn làng xã hiện nay. Điều đó cho thấy, qua sàng lọc của lịch sử, của ý thức hệ, của từng nhiệm vụ chính trị đặt ra trong từng thời kỳ. Các thiết chế trên đã được nhân dân lựa chọn, chung sức xây dựng và đang tổ chức hoạt động hiệu quả, phát huy giá trị của từng thiết chế, đóng góp không nhỏ vào việc xây dựng môi trường văn hóa lành mạnh, phát triển bền vững, có tác động thúc đẩy kinh tế, xã hội phát triển, phù hợp định hướng xây dựng nông thôn mới hiện nay./.

                                                                    Nguyễn Thanh Dũng